Nhiệm vụ chính của nhà lãnh đạo là định hướng và chú tâm vào mục tiêu của chính họ. Để làm được điều này, các nhà lãnh đạo phải học được cách tập trung để không bị ảnh hưởng bởi những tác nhân bên ngoài. Khi chúng ta nói về sự tập trung, thường có nghĩa là suy nghĩ về một điều và loại bỏ các phiền nhiễu khác. Nhưng một nghiên cứu gần đây về khoa học thần kinh cho thấy, con người tập trung theo nhiều cách, cho các mục đích khác nhau.
Nghiên cứu này đã chỉ ra 3 cách tập trung của lãnh đạo: (1) Tập trung vào bản thân; (2) Tập trung vào những người khác; (3) Tập trung vào thế giới bên ngoài.
Mỗi cách tập trung có ảnh hưởng đến khả năng điều hành của một nhà lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo cần phải cân bằng giữa các cách tập trung này trong suy nghĩ và hành động. Nếu như sự tập trung vào bản thân và tập trung vào người khác giúp các nhà lãnh đạo trau dồi các yếu tố chính của trí tuệ cảm xúc, thì khi tập trung vào thế giới bên ngoài có thể giúp các nhà lãnh đạo cải thiện khả năng trong việc đưa ra chiến lược, đổi mới và quản lý tổ chức.
1. TẬP TRUNG VÀO BẢN THÂN
Trí tuệ cảm xúc bắt đầu với sự tự nhận thức, liên lạc với “giọng nói” bên trong mỗi người. Bằng việc lắng nghe những suy nghĩ bên trong, các nhà lãnh đạo có thể liên kết các yếu tố về kiến thức, kinh nghiệm, sự nhạy bén trước khi đưa ra bất cứ quyết định nào. Có 2 cấp độ trong việc hướng đến nội tâm cá nhân của bản thân, đó là sự tự nhận thức và tự kiểm soát.
Tự nhận thức
Chú ý lắng nghe “giọng nói” bên trong chính mình là một điều các nhà lãnh đạo cần quan tâm. Các tín hiệu thần kinh tinh tế này là những thông điệp gợi nên sự phán đoán có tính tạm thời về tính chất đúng sai của sự việc, hay còn gọi là “trực giác”.
Một cuộc phỏng vấn được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu nước Anh với 118 thương nhân và 10 nhà quản lý cấp cao tại bốn ngân hàng đầu tư của thành phố London. Ở nhóm những người thành công nhất (có thu nhập hàng năm trung bình 500.000 Bảng Anh), họ chia sẻ rằng ngoài những số liệu thực tế hay sự liều lĩnh họ còn tin vào cả những “mách bảo” từ trực giác bản thân. Còn nhóm những thương gia ít thành công hơn (có thu nhập trung bình chỉ 100.000 Bảng Anh) có xu hướng bỏ qua những “tín hiệu trực giác” và không ngần ngại đưa ra những quyết định nguy hiểm.
Trong việc là chính mình khi tập trung vào bản thân, một điều khác không kém phần quan trọng mà nhà lãnh đạo cần quan tâm là cách nhìn nhận từ người khác, đặc biệt là với những người chúng ta thật sự tôn trọng và những có sự thẳng thắn trong chia sẻ. Trong các mối quan hệ xã hội, không dễ dàng để có cơ hội hiểu được người xung quanh cảm nhận thế nào về chính chúng ta. Thậm chí khi ở vị trí điều hành, các nhà lãnh đạo sẽ rất khó để nghe những lời thật lòng. Trong một khóa học lãnh đạo tại trường Kinh doanh Havard, các lãnh đạo được nâng cao sự tự nhận thức bằng việc tự bộc lộ bản thân. Một khu vực an toàn mà mọi thành viên đều có thể thảo luận các vấn đề cá nhân mà không thể thực hiện ở những nơi khác hay với những người khác – ngay cả chính những thành viên trong gia đình. Chúng ta không biết chúng ta là ai cho đến khi chính mình tự kể câu chuyện cuộc đời cho những người ta tin tưởng.
Tự kiểm soát
Kiểm soát nhận thức (Cognitive Control) là một thuật ngữ khoa học để diễn tả khả năng quản lý tốt cảm xúc và bĩnh tĩnh khi đối mặt với những cám dỗ. Một cách nói dân gian hơn cho khả năng này đó là “ý chí”. Điều này mang đến cho các nhà lãnh đạo sự kiên định trong việc thực hiện mục tiêu bất chấp khó khăn hay thất bại. Hoạt động não cùng hệ thống dây thần kinh cho phép tập trung theo đuổi một mục tiêu đơn thuần cũng như kiểm soát những cảm xúc bất thường. Kiểm soát nhận thức tốt có thể được nhìn thấy ở những người bình tĩnh trong một cuộc khủng hoảng, chế ngự sự kích động của chính họ, và phục hồi nhanh chóng sau thất bại.
Có ba cấp độ kiểm soát nhận thức: Thứ nhất là khả năng loại bỏ sự tập trung ra khỏi điều ham muốn; Thứ hai là khả năng chống phân tâm để không dễ dàng bị cuốn hút bởi điều gì đó; Cuối cùng là khả năng hướng về mục tiêu tương lai và tưởng tượng cảm giác khi đạt được nó. Tự kiềm chế không hẳn là yếu tố tự nhiên, nó được hình thành và duy trì một cách có ý thức theo thời gian, cũng như theo nhu cầu của mỗi người.
2. TẬP TRUNG VÀO NGƯỜI KHÁC
Nền tảng của tập trung vào người khác là từ sự chuyên tâm, ân cần và chu đáo đối với mọi người, và đó cũng là nền tảng của sự thấu cảm, yếu tố làm nên trí tuệ cảm xúc. Những người hướng sự tập trung vào những người xung quanh dễ dàng nhận thức được sự thay đổi, nhận được sự tin tưởng nhiều hơn và họ có sức ảnh hưởng đến từng cá nhân và cả tổ chức. Việc hướng sự tập trung vào người khác được hình thành nên từ sự thấu cảm và mức độ nhạy cảm xã hội.
Ba sắc thái thấu cảm
Thấu cảm thường được nhắc đến như một thuộc tích đơn lập. Nhưng khi có sự tách bạch rõ ràng và chuyên sâu sẽ làm bật lên ba loại riêng biệt, mỗi loại này sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả lãnh đạo.
- Thấu cảm nhận thức (Cognitive empathy): Thấu cảm nhận thức cho phép các nhà lãnh đạo tự nhận thức được vấn đề trong từng trường hợp. Thấu cảm nhận thức không đơn thuần chỉ là việc cảm nhận trực tiếp như lẽ thường, nó đòi hỏi nhiều hơn ở sự suy nghĩ về các xúc cảm. Người có khả năng này luôn có những thắc mắc về những người xung quanh, luôn có nhu cầu được biết và được hiểu. Khả năng này được phát triển bởi gốc là sự tự nhận thức. Từ những trải nghiệm và cảm xúc của bản thân trước một vấn đề, chúng ta có xu hướng cảm nhận sự việc của người khác dưới lăng kính của chính bản thân.
- Thấu cảm cảm xúc (Emotional empathy): Thấu cảm cảm xúc là khả năng cảm nhận những gì người khác đã trải qua, thấu cảm này có ảnh hưởng lớn đến cách ứng xử giữa người và người, giữa nhân viên với khách hàng hay giữa các nhân viên với nhau. Theo Tania Singer – Giám đốc Social Neuroscience từ Max Planck Institute for Human Cognitive and Brain Sciences tại Đức cho biết: “Bạn cần phải hiểu cảm xúc của chính mình để có thể hiểu cảm xúc của người khác.” Việc phát triển khả năng thấu cảm của chúng ta phụ thuộc vào việc kết hợp hai loại chú ý: một là sự tập trung có chủ tâm vào người khác, và hai là sự cảm nhận cởi mở về khuôn mặt, giọng nói, những dấu hiệu cảm xúc bên ngoài của người đó.
- Thấu cảm từ tâm (Empathic Concern): Loại thấu cảm này có liên quan chặt chẽ đến thấu cảm cảm xúc, nó cho phép các nhà lãnh đạo cảm nhận không chỉ là điều mà mọi người đang cảm thấy, mà còn là những điều mọi người đang cần. Khả năng này là cảm giác xuất phát từ hai hướng. Bằng trực giác, chúng ta cảm nhận sự đau khổ của người khác như của chính chúng ta. Nhưng khi chúng ta quyết định liệu có thể đáp ứng được nhu cầu của người đó hay không, thì chúng ta phải cân nhắc đánh giá cảm xúc của họ đang ở mức độ nào. Những người có sự đồng cảm mạnh mẽ thường xuyên cảm thấy mệt mỏi và bị chi phối quá nhiều bởi cảm xúc của người khác, và khi họ tự bảo vệ mình bằng cách giết chết cảm xúc đó thì sự thấu cảm cũng sẽ mất đi. Thấu cảm từ tâm đòi hỏi mỗi người phải kiểm soát cảm xúc của bản thân để không trở nên vô cảm trước nỗi đau của người khác.
Mức độ nhạy cảm xã hội
Những người thiếu độ nhạy cảm xã hội rất dễ nhận diện thông quá cách thức giao tiếp với mọi người xung quanh. Những người này thường không nhận ra được sự phiền toái của họ lên những người khác. Ví dụ như một vị lãnh đạo tài năng tuy có năng lực cao trong quản lý cũng như chuyên môn nhưng anh ta lại thường xuyên thích bắt nạt hay gieo nỗi sợ hãi lên các nhân viên, nhưng khi nhận lại sự chỉ trích hay tức giận từ người khác, anh ta phải cố gắng rất nhiều để chấp nhận vì thật sự anh ta không hề nhận thức được những tính cách đó của mình.
Mức độ nhạy cảm xã hội dường như có liên quan chặt chẽ đến thấu cảm nhận thức. Các nhà lãnh đạo thường có xu hướng thực hiện tốt thấu cảm nhận thức ở một môi trường mới khi mà ở đó họ buộc phải tìm hiểu và thích nghi với những tinh thần văn hóa mới. Bối cảnh xã hội hay thời đại cũng làm nên sự khác biệt về các chuẩn mực trong nhạy cảm xã hội. Nhiều nghiên cứu gần đây đã cho thấy một thực trạng đáng báo động: khi con người vượt qua các cấp bậc và giành được quyền lực, khả năng nhận thức và duy trì các liên kết cá nhân của họ có xu hướng tiêu hao về mặt tinh thần. Trong nghiên cứu của mình, Dacher Keltner – nhà tâm lý học ở Berkeley, đã phát hiện ra rằng những cá nhân có cấp bậc cao hơn luôn ít tập trung hơn vào những người cấp thấp hơn, và có nhiều khả năng làm gián đoạn hoặc độc chiếm cuộc trò chuyện.
3. TẬP TRUNG VÀO THẾ GIỚI BÊN NGOÀI
Các nhà lãnh đạo với cái nhìn thấu đáo ra bên ngoài không chỉ là một vị thính giả xuất sắc mà còn là những người luôn đặt ra nhiều nghi vấn. Họ là những người nhìn xa trông rộng, có thể cảm nhận được những hậu quả sẽ xảy đến và tưởng tượng ra những lựa chọn mà họ thực hiện hôm nay sẽ diễn ra như thế nào trong tương lai. Những nhà lãnh đạo tài năng không chỉ tập trung cho sự phát triển của mình hay của tổ chức, mà sẽ còn hướng đến những điều vĩ mô hơn cho xã hội, và dùng sức ảnh hưởng của mình để tạo nên sự thay đổi tích cực.
Tập trung vào chiến lược
Bất kỳ khóa học kinh doanh nào về chiến lược cũng sẽ mang lại hai lợi ích lớn cho các nhà lãnh đạo: một là khai thác ưu thế hiện tại, hai là khám phá những khía cạnh tiềm năng của chính mình.
Nghiên cứu đã tiến hành chụp cắt lớp não bộ của hơn 63 nhà hoạch định kinh doanh dày dạn kinh nghiệm trong quá trình họ chuyển đổi từ trạng thái khai thác ưu thế hiện tại sang khám phá những khía cạnh tiềm năng. Dễ nhận thấy rằng, khi ‘khai thác ưu thế hiện tại’ đòi hỏi các nhà lãnh đạo tập trung vào những gì đang có trong tay, còn việc ‘khám phá những khía cạnh tiềm năng’ yêu cầu não bộ phải mở rộng phạm vi nhận thức nhiều hơn để nỗ lực rời khỏi những ‘lộ trình quen thuộc’ để tìm ra những ‘chân trời mới’.
Vậy, điều gì cản trở chúng ta không thực hiện những nỗ lực để đạt trạng thái “khám phá” đó? Nhà kinh tế học Herbert Simon viết vào năm 1971: “Sự dồi dào thông tin tạo nên tình trạng thiếu tập trung”. Sự thiếu ngủ, căng thẳng và quá tải về tinh thần… đều ảnh hưởng đến mạch điều hành của chiếc ‘công tắc nhận thức’. Để duy trì chiếc “công tắc” này và dẫn đến sự đổi mới, các nhà lãnh đạo cần có thời gian để soi rọi và cải thiện sự tập trung của chính mình.
Tập trung để sáng tạo
Trong một thời đại khi hầu hết mọi người đều tiếp nhận cùng một thông tin, thì các sáng tạo sẽ nảy sinh từ việc gom các ý tưởng lại với nhau theo những cách mới lạ, và đặt các câu hỏi liên kết nhằm mở ra các vấn đề chưa được khai thác. Khoảnh khắc khi chúng ta nảy ra một ý tưởng sáng tạo, bộ não tăng đột biến sóng gamma, cho thấy sự đồng bộ của các tế bào não, các nơ ron thần kinh được đồng bộ với nhau tạo thành mạng lưới tạo nên liên kết mới.
Nhưng khó để có thể nói sự “đột biến sóng gamma” trong não là bí mật của sáng tạo. Thật ra mô hình sáng tạo cổ điển cho thấy sự tập trung đóng vai trò chủ chốt. Bằng cách thu thập nhiều thông tin cần thiết, sau đó là sự luân phiên giữa việc tập trung chăm chú vào vấn đề và để tâm trí được buông lỏng, từ đó não bộ cho phép tâm trí liên kết một cách tự do và giải pháp sáng tạo sẽ ra đời một cách tự phát. (Đó là lý do tại sao rất nhiều ý tưởng mới xuất hiện khi chúng ta đang trong phòng tắm hoặc đi dạo hay chạy bộ…)
TRỞ THÀNH NHÀ LÃNH ĐẠO TẬP TRUNG
Sự kết hợp giữa ba cách thức tập trung nêu trên không phải tài năng thiên bẩm, mà là phản xạ có điều kiện xuất phát từ hệ thần kinh và sự rèn luyện trong thời gian dài. Hội tụ và sở hữu đầy đủ 3 phương phức tập trung, các nhà lãnh đạo sẽ là người có khả năng điều hướng toàn bộ sự chú ý của bản thân, liên lạc với cảm xúc bên trong, điều tiết xung lực với bên ngoài, hiểu những gì người khác cần từ họ, dễ dàng loại bỏ phiền nhiễu cũng như cho phép tâm trí rộng mở, khai phóng. Trở thành một nhà lãnh đạo tập trung chính là phương thức để có thể trở thành một nhà lãnh đạo tài ba.
Theo Daniel Goleman,
Tạp chí Harvard Business Review
Được lược dịch bởi Trường Doanh Nhân PACE